BÀI VÈ THỦY TRÌNH

Xin chân-thành cảm ơn anh Hoàng-Mai-Chào (CVA) đánh máy giúp.

 Cụ BÙI QUANG TUNG thâu chép

Vũ Hữu San trình-bày

 

LỜI DẪN ĐẦU.

Nước Việt Nam ta có trên hai ngàn cây số dài duyên hải. Trước khi người Âu châu đến xứ ta, sự giao thông giữa hai miền Nam và Bắc có hai lối. Một lối là do đường bộ. Đường này thường gọi là quan lộ, bề ngang nhỏ và hẹp, chỉ vừa để đi kiệu, hoặc đi ngựa, triều đình thường dùng để đem tin tức giữa các quan lại hàng tỉnh và nhà vua. Đường quan lộ chia ra từng trạm, mỗi trạm đều có kỵ-mã, tiếp sức với nhau để nối liền các trạm. Sau khi người Lang-sa (Pháp) chiếm xứ ta, thì họ cho mở rộng ra, thay đổi chút ít lộ trình (itinéraire), để các thứ xe chạy; họ gọi là con đường thuộc địa số I, nay ta đổi lại là quốc lộ số I. Lẽ dĩ nhiên, đường quan lộ nầy khi xưa không thể dùng để chuyên tải hàng hóa được. Bao nhiêu sự chuyển vận nặng nề để trao đổi sản phẩm giữa hai miền Nam, Bắc, thứ nhất là để cung cấp thực phẩm cho vùng Thuận Hóa là kinh đô của nhà Nguyễn, đều do đường thủy. Ấy là lối thứ nhì. Lối thủy trình nầy đã có từ lâu, dân ta thường dùng thứ ghe đi biển đặc biệt của ta là ghe bầu do các giới ngạn phủ (riverains) biển Đại Thanh đảm nhận. Sau nầy, mặc dù người Lang-sa đặt đường xe lửa xuyên Việt (Transindochinois) và dùng tàu thủy có động cơ để nối liền các thủ đô và hải cảng toàn xứ Việt Nam, sự giao thông bằng ghe bầu không lúc nào đoạn tuyệt. Tại Huế đến Bảo-vinh là cái ụ trong sông mà các ghe bầu thường lai vãng trong hành trình chuyển vận giữa hai miền Bắc và Nam.

 Trong khi tôi đi khảo sát về sinh hoạt, cổ tục, ngôn ngữ của người Việt dài theo miền duyên hải, tôi có thâu chép bài vè thủy trình từ Huế vô Gia Định và từ Huế ra Nam Định. Như chúng ta biết, người Việt thường dùng lối vè dễ đọc, dễ nhớ, thay thế sách vở hiếm hoi, để phổ biến những nhận thức cần thiết. Mục đích của bài vè thủy trình là sắp đặt các địa điểm thành câu, để các lái ghe bầu, vừa đi ghe, vừa hát cho nhớ tới tỉnh nào hoặc tới nơi nào có những hòn rạn nguy hiểm mà tránh. Bài vè nầy rất dài, tôi xin cắt đôi, đăng trước phần từ Huế vô Gia Định, phần kia sẽ đăng sau. Về mặt khảo cứu, bài vè thủy trình nầy đáng để ý về mặt địa lý trước hết : những địa điểm đã kể cần phải minh xác (identifier) rõ rệt. Ông Lê văn Tho, nhà hàm hộ có tiếng tăm tại Phan Thiết và lại là người có tánh hiếu kỳ, đã giúp tôi để minh xác một phần lớn các địa danh trong bài. Tuy vậy, còn nhiều địa danh chưa minh xác rõ rệt, mong các bạn độc giả tiếp sức để giúp chúng tôi về phần ấy và đánh giá luôn thể bài vè nầy về mọi mặt địa lý, dân tộc, ngôn ngữ v.v Nếu được như vậy, thì không chi bằng !

 Bài vè nầy được thâu chép và ghi âm tại Huế, Đà Nẵng và Phan Thiết trong các giới các lái cũ do ba ông Nguyễn xuân Đồng, quyền giám đốc Viện bảo tàng Cổ vật Chàm Đà Nẵng, ông Lê văn Tho tại Phan Thiết và ông Nguyễn Khiêm tại Huế giới thiệu. Xin trân trọng cám ơn quí ông kể trên và các nhà lái đã đọc lại bài vè nầy để tôi giữ làm tài liệu.

 

 

VÈ THỦY-TRÌNH TỪ HUẾ VÔ SÀIGÒN

((Đặc-San Sử Địa số 17 và 18, Sài Gòn 1970)

 

 Ngồi buồn nói chuyện đi buôn,

2 Nói cho giải buồn là sự ngâm nga,

 Bắt từ GIA-ĐỊNH kể ra

4 Cho chí THUẬN-HOÁ ngoài HUẾ kể vô,

 Trên thời khôi phục thành đô,

6 Dưới sông buôn bán ra vô dập dìu,

 Trên thời vua THUẤN đức NGHIÊU,

8 Dưới sông lập trị, lập điều sửa sang,

 Trên thời ngói lợp tòa vàng,

10 Dưới sông thủy cát nghênh ngang chật hồ,

 Nầy đoạn các lái trở vô,

12 THUẬN-AN là chốn thuyền đô ra vào,

 Vát [1] ra một đỗi khơi cao,

14 Ta sẽ lần vào thì tới cửa Ông [2],

 Nay đà giáp phủ THUẬN-PHONG,

16 Hòn AM [3], cửa KIỄN nằm trong thay là,

 Nới lèo ráng bánh trở ra,

18 Khỏi mũi CHÂU MỚI [4] thì ta lần vào,

 Ngó lên núi ẢI [5] rất cao,

20 Ta sẽ lần vào bãi CHUỐI, hang DƠI [6],

 Anh em nước củi thảnh thơi,

22 Hòn Hành nằm đó là nơi cửa HÀN [7],

 Cửa HÀN còn ở trong xa,

24 Trước mũi SƠN-TRÀ sau có con NGHÊ [8],

 Vũng NỒM, bãi BẮC dựa kề,

26 MỸ-KHÊ làng mới làm nghề lưới đăng.

 Ngó về NON NƯỚC thẳng băng,

28 Có chùa thờ PHẬT, PHẬT bằng linh thiêng.

 LAO XANH [9] nay đã gần miền,

30 Hòn LA, hòn LỤI nằm liền hòn TAI,

 Năm hòn nằm đó không sai,

32 Hòn KHÔ, hòn DÀI láo nháo nên vui.

 Ngó về cửa ĐỢI [10] thương ôi !

34 Hòn NỒM nằm dưới mồ côi một mình.

Phụ chú:  Phần đầu tài liệu này do các ông : Lê văn Phát, 73 tuổi, quán Nại Hiên Tây ở Đà-nẵng, ông Hồ Huyền, 82 tuổi, quán Hòa Phụng (Khuê Đông) Quảng-nam đọc lại vào khoảng tháng bảy d.l. năm 1960. Phần thủy trình từ Cà Ná tới Saigon thì nhờ ông Võ Tại, 65 tuổi, và ông Lê văn Thọ 56 tuổi, cả hai quán ở Đức Thắng (Phan Thiết), bổ túc vào khoảng tháng 4 d.l. năm 1962.

 Ông Nguyễn Khiêm ở Huế cũng có chép cho tôi một bản khác do các lái ghe tại cửa Tư Hiền đọc lại. Những chú thích dị bản là dựa theo bài chót nầy.

 

 

*

* *

 TAM-ẤP HÀ-BỨA có rạn[11] trời sinh,

36 BÀN-THANG[12] của LƠ [13] luôn kinh AN-HÒA,

 SA-CẦN, CHÂU-Ổ bao xa,

38 Trước mũi CÂY QUÍT thiệt là TỔNG BINH [14],

 Lâm châm, cỏ ngựa [15] trời sinh

40 LẢNG GẢNH, MỸ-GIẢNG ăn quanh VŨNG-TÀU [16].

 Nới lèo ráng lái mau mau,

42 CHÂU-ME, LÒ RƯỢU sóng xao hòn NHÀN [17]

 Vác mặt xem thấy [18] BÀN-THANG,

44 Ngoài thời lao RÉ nằm ngang SA-KỲ [19]

 QUẢNG-NGÃI, TRÀ-KHÚC núi Chi [20],

46 Có hòn THIÊN-ẨN dấu ghi để đời.

 Hòn SỤ P[21] ta sẽ buông khơi,

48 Trong vịnh, ngoài vời núi đất mênh mang.

 Buồm giương ba cạnh sẵn sàng,

50 Anh em chúng bạn nhiêu đàng tư lương,

 MỸ-Á, CỬA CẠN, hàng thương [22],

52 Dinh HIẾU, bãi TRƯỜNG [23] xích thố ban ban,

 

*

* *

Vát ra thấy mũi SA-HOÀNG [24]

54 Kìa kìa đã thấy TAM-QUAN nhiều dừa.

 Hèn chi lời thốt thủơ xưa,

56 Nam thanh nữ tú đã vừa con ngươi,

 Gặp nhau chưa nói đã cười,

58 Kìa mũi TÀI-PHÚ [25] là nơi nhiều ghè.

 Non xanh nước bích chỉnh ghê,

60 Bãi HƯỜNG, gành TRỌC dựa kề làng GIAO.

 Vát ra thấy lố KHÔ-CAO [26],

62 Vác mặt xem vào thấy bãi HÀ-RA,

 Nhắm chừng gành MẮC buông qua,

64 DY-RỒNG [27], Phường Mới, xinh đà nên xinh.

 VŨNG BẦU, NƯỚC NGỌT lố kinh,

66 Vũng Tô, suối BÚNG thiệt tình nên vui.

 Thương cha nhớ mẹ ngùi ngùi,

68 Hòn núi KẺ-THỬ [28] có người bồng con

 Lời thề dưới nước trên non,

70 Mình khô như đá sơn son để đời,

  

Vũng NỒM, bãi BẮC xem chơi,

72 Trong kinh hòn THẸO, ngoài thời CỎ CÂN [29]

 Nam lò, eo DƯỢT rần rần [30],

74 Răng-hô [31], mũi YẾN đã gần làng MAI [32],

 Cửa GIẢ [33] có hòn án ngoài,

76 Các lái chạy ngoài kêu lòn LAO XANH.

*

* *

 Vũng MỦ trong vịnh ngoài gành [34]

78 CÙ MÔNG, vũng TRÍCH ăn quanh bãi Liền.

 Gành BA, ai khéo đặt tên,

80 SƠN-DƯƠNG [35] gành MÓM nối liền vũng LA [36],

 Nhắm chừng vũng LẮM buông qua,

82 XUÂN-ĐÀI, mũi YẾN chạy qua hố TRẦU [37],

 Mái nhà gác xối [38] liền nhau,

84 Sơn thủy rất màu tợ gấm kim quy.

 Hòn CHÙA [39] ghe đậu một khi [40],

86 Chín từng mây nức vậy thì BA-LIÊN [41],

 Ngó lên thấy mả CAO-BIỀN,

88 Kìa kìa lại thấy BA LIÊN chớp chài,

 DINH BÀ có tháp xây ngoài [42],

90 Chạy hết bãi dài tới cửa TRÀ-NÔNG.

 Ngoài thời KHÔ [43] chất chập chồng

92 Ở trong có bãi, giữa thời có KINH,

 Mũi NẬY có Đá Bia xinh,

94 Tạc để lưu truyền nối nghiệp HÙNG-VƯƠNG.

 Ô-RÔ [44] núi tấn bốn phương,

96 Mịt mù sơn thủy như gương tựa đồ,

 Bịt bùng chừa một đường vô,

98 Dầu nồm, dầu bắc không xô phía nào,

 

*

* *

 Hòn NỬA [45] không thấp, không cao,

100 Vác mặt trong vào bãi VÕ [46] sóng ngang.

 Hòn GẦM sóng bổ chuyển vang,

102 Chạy hết cát THẮM lại sang ĐỒI-MỒI [47],

 Anh em lời thốt thương ôi [48],

104 Chạy khỏi ĐỒI-MỒI tới đầm BÀ GIA,

 

Trong thời bãi cát Trường sa,

106 Có đôi lưới bủa, có nhà thôn dân.

 XA CỪ [49] nay đã hầu gần,

108 Ai vào cứa BÉ lánh thân TRÂU-NẰM [50],

 Bến đò HÒN KHÓI tăm tăm,

110 Chạy khỏi TRÂU-NẰM tới cửa CÂY SUNG [51],

 Chà là [52], hòn ĐỤN chóp vung,

112 Ngó xuống ĐẢ-ĐẠC luôn kinh BÌNH-HÒA [53].

 NHA-TRANG xuống CHỤT bao xa,

114 Kẻ vô mua đệm, người ra mua chằng [54],

 Anh em mừng rỡ lăng xăng,

116 Người hỏi thăm vào, kẻ hỏi thăm ra,

 Anh em chè rượu hỉ ha,

118 Xùng xình bãi MIỄU thì ta lướt vào,

 Ngó ra NỘI NGOẠI [55] sóng xao,

120 Vác mặt xem vào bãi DÀI, con NGHÊ [56].

 

 

CHỤT đèn ngó xuống chỉnh-ghê [57],

122 Ngó về hòn TỶ dựa kề CAM-LINH [58],

 MÒ-O [59], GIỎ-TÓ rất xinh,

124 Lại thêm ĐÁ-VÁCH dựa kề vũng GIĂNG [60].

 Vũng GIĂNG, ĐÁ-VÁCH như thành,

126 Hai bên núi TẤN xung quanh như buồng [61],

 Mặc dầu thuyền đậu bán buôn,

128 Nào ai đình trú ở luôn mặc lòng.

 Túi thơ chè rượu xem chơi,

130 Buồm giương ba cạnh nhắm vời chạy ra.

 Nam mù mù hòn CHÔNG [62] bãi LỬA,

132 Khỏi MAI-DẰNG [63] mới tới PHAN-RANG,

 Vũng TRÒN lai láng nghinh ngang,

134 Trong xa thâm thẫm là ngàn MŨI DINH [64],

 Qua MŨI DINH cho liền chín VẠI [65],

136 Tắt mặt trời xách lái ra đi.

 Nhắm chừng bãi LƯỚI [66] đã qua,

138 Tây phương chỉ mũi lái đà gác đông.

 AN-HÒA lẳng lặng muôn phần,

140 Bãi TIÊN đã khỏi khu ÔNG lại gần [67].

 LAO-CAO [68], CÀ-NÁ là đây,

142 LÒNG SONG, MŨI CHỌ [69] thẳng ngay LA GÀN.

 

 

 

*

* *

Ngó vô thuyền đậu nghênh ngang,

144 Gành SON, TRẠI LƯỚI vinh quang làm nghề [70]

 Cửa DƯỜNG [71] nay đã gần kề,

146 Lạch kia PHAN RÍ ghe nghề xôn xao [72].

 Nhắm chừng MŨI NHỎ buông qua,

148 Vũng MÔN, ĐÁ DỰNG đã xa hòn HƯỜNG,

 Hòn NGHỀ, QUẢNG THÍ dựa nương,

150 Ở trong có vũng như ao thăng bằng,

 BÃI RẠNG, gành TRỌC trong xa,

152 Hòn RƠM, MŨI NÉ là đường vô ra.

 Trông xa mua dặm bán chừng,

154 PHÚ HẢI, PHAN THIẾT ấy là trạm trung,

 Ai mà đốn củi gành THÔNG [73],

156 Sơn lâm một gánh chất chồng hai vai.

 GHE GÀ nay đã đến nơi,

158 Anh em làm lễ một hồi ta qua,

 Nới lèo xây lái trở ra,

160 Hòn LANG, cửa CẠN ấy là TAM TÂN,

 Sóng ào-ào buồm dương ba cạnh,

162 Chạy một hồi tỏ rạn LA-GÌ [74],

 Hòn BÀ, rạn GÕ một khi [75],

164 Ngoài khơi rạn ĐẬP, trong ni rạn HỒ,

 Buồm giương ba cạnh chạy vô,

166 Mũi BÀ [76], hóc KIỂM [77] quanh co hồ CHÀM.

 

 

*

* *

 Kim ngân lễ vật cúng dường [78],

168 Lâm râm khẩn nguyện lòng thường chớ quên,

 Bãi GIỐNG chạy thẳng XÍCH-RAM,

170 LƯỠI RẾ qua khỏi, rạn CAM nằm ngoài.

 Ngoài Ba lũy sóng rền CỬA CẠN,

172 Vát một hồi tỏ rạn THỦY VÂN [79].

 Ngoài KỲ-VÂN trong trong liền giếng BỘNG,

174 Vát một hồi lồng lộng cao khơi,

 Ba non chót vót cao vời,

176 Muốn cho khỏi rạn phải lơi ra ngoài,

 Sang lèo, trở lái qua TAI [80],

178 VŨNG TÀU đã tróng lại lòi VŨNG MAY,

 CẦN GIỜ nay đã đến nơi.

180 Trình đôn rồi lại thẳng ngay SÀI-GÒN,

 SÀI-GÒN nước chảy phân hai,

182 AI về GIA-ĐỊNH, ĐỒNG NAI thì về.

 BÙI QUANG TUNG

 Paris, Mai 1962

 

 

-----------

 

 

THỦY-TRÌNH ĐƯỜNG GHE TỪ HUẾ (THỪA-THIÊN) RA NAM-ĐỊNH

(Đặc-San Sử Địa số 22)

 

Cụ BÙI QUANG TUNG thâu chép

 1.- Kể từ Thuận-Hóa kể ra,

 2.- Kể tới Cửa-Việt kể qua Cửa Tùng,

 3.- Quảng Trị địa thế vô cùng,

 4.- Đông thời Hòn Cỏ tây thời Lương-giang,

 5.- Tỉnh thời cầu sắt bắc sang,

 

 

 

 

 

6.- Có đường xe hỏa xóm làng lao xao,

 7.- Mũi Lài không thấp không cao,

 8.- Các lái ra vào tránh lố Khơi-khơi,

 9.- Hòn Cỏ còn ngoài khơi,

 10.- Các lái lỡi vời tăm tối phải coi,

 11.- Ngó lên bãi cát còn dài,

 12.- Chạy khỏi Mũi Lài đã đến Dừa Đôi.

 13.- Ngó vô trong núi Như-Ngôi,

 14.- Đầu bồ Tục đệ phải coi làm chừng,

 15.- Quảng-Bình phố xá tưng bừng,

 16.- Đông thời Bãi-Độ tây thời Diêm-la,

 17.- Thương thuyền các lái đi ra,

 18.- Ghé cửa Nhật-lệ vậy mà nghỉ ngơi,

 19.- Anh em ghé lại mà chơi,

 20.- Đi chợ Trầu-thất nghỉ ngơi bàng hoàng,

 21.- Dinh Cô làm lễ sẵn sàng,

 22.- Các lái băng ngàn Phú-địa thẳng nơi,

 23.- Hòn Hiên vốn thiệt có vơi,

 24.- trong vịnh ngoài vời cửa Vọ luôn qua,

 25.- Chạy lên một đỗi xa xa,

 26.- Khỏi mũi Đá-nhảy Lý-hòa quản bao,

 27.- Trên thời nhà ngói lao xao,

 28.- Dưới sông ghe đậu như bàu lạnh tanh,

 29.- Chạy lên đến cửa Sông Gianh,

 30.- Cửa sâu thăm thẳm nước xanh như chàm,

 31.- Phú-đường là chốn dinh làm,

 32.- Ba-đồn phiên tụ cảnh còn thêm mê,

 33.- Cảnh Giang nhà cửa ê hề,

 34.- Vốn nhà Tuần pháp làm nghề tam canh,

 35.- Cửa Ròn bên bãi bên gành,

 36.- Ngoài thời có rạn ăn quanh lên chùa,

 37.- Vũng chùa gió bấc khó neo,

 38.- Hòn Giò còn ở cheo leo một mình,

 39.- Mũi La hai cụm hai kinh,

 40.- Nam nồm ghe dựa không hình không nghiêng,

 41.- Bãi Bò nam thổi thường xuyên,

 42.- Các lái thương thuyền phải ngó mà đi,

 43.- Sơn dương cách núi dị kỳ,

 44.- Tam-Sơn nằm đó trong thì ghe xuôi,

 45.- Ngó vô cửa Khẩu thêm vui,

 46.- Nam lò Mũi Án là nơi tục truyền,

 47.- Hà-tịnh núi bãi liên miên,

 48.- Chạy đã gần miền Cửa Nhượng là đây,

 49.- Hòn Yến còn ở ngoài nầy,

 50.- Khe Gà có rạn ăn giây ngang dài,

 51.- Dù nam cũng phải chạy ngoài,

 52.- Chạy lên nửa bãi Mặt-tài lộng khơi,

 53.- Ngó vô Cửa Sót chơi vơi,

 54.- Ngoài thời có mũi có nơi neo nằm,

 55.- Ngó lên Hòn Mắt thẳng dăng,

 56.- Hòn De Hòn Chén rạn ăn ở trầm,

 57.- Hòn Ngư Kiều ngựa núi quèn

 58.- Dù nam neo dựa cũng bằng trong kinh,

 59.- Ngó vô cửa Nghệ thêm xinh,

 60.- Các lái đẹp tình ghé lại bán buôn,

 61.- Lạch-Quèn còn ở phía trên,

 62.- Có ngôi đá nổi đặt tên Rạn-Bà,

 63.- Nhắm chừng bãi cát bát ra,

 64.- Lạch Là chạy khỏi Nhà-bà là đây,

 65.- Khen cho địa cuộc khéo xây,

 66.- Trong thời có cửa ngoài thời gia dăng,

 67.- Đông hội có rạn ăn de,

 68.- Có kinh Vũng Ngọc để te ra vào,

 69.- Mũi Biện không thấp không cao,

 70.- Cái lái ra vào để dựa nước non,

 71.- Hòn Mê còn ở chon von,

 72.- Có năm bảy hòn xúm xít như mô,

 73.- Dù ai lên xuống ra vô,

 74.- Chạy ngoài phải giữ Tàu-ô cướp chừng,

 75.- Trời định vận số vô cùng,

 76.- Anh em hiệp lực đánh cùng Tàu-ô,

 77.- Đánh rồi bắt mổ lấy gan,

 78.- Để làm cuộc rượu thưởng chàng có công,

 79.- Nam thời khiến lái thẳng xông,

 80.- Chạy khỏi Cửa Bạn Hòn Gầm là đây,

 81.- Hòn Gầm lầu sắt khéo xây,

 

 

 

 

 82.- Có tòa có sứ có tây canh tuần,

 83.- Đêm thời đèn điện sáng trưng

 84.- Ban ngày xem thấy như từng màn sao,

 85.- Lạch-Tàu thôi đã tới nơi,

 86.- Tới tỉnh Thanh-hóa xem chơi giá hàng,

 87.- Tỉnh thời cầu sắt bắc ngang,

 88.- Hai bên cách núi như hang bịt bùng,

 89.- Khen cho nhà nước có công,

 90.- Cầu bắc Hàm-rồng thiên hạ vô song,

 91.- Ai ai giữ lấy làm lòng,

 92.- Trừ-minh gạo gấm có đông coi chừng,

 93.- Ngó ra sóng dợn tưng bừng,

 94.- Ai cũng coi chừng Hòn Mệ là đây,

 95.- Lạch-trường còn ở ngoài nầy,

 96.- Hòn Bò nằm đó vậy thời mồ côi,

 97.- Chiều rồi ghé Vệ nghỉ ngơi,

 98.- Sáng ngày đánh nước ra khơi bắt bầu,

 99.- Thần-phù núi kết liễu châu,

 100.- Bắt cho đặng bầu Cửa Cổng mới xuôi,

 101.- Ngó vô Phước-diện bùi ngùi,

 102.- Chạy lên đến đó mới vui nỗi thuyền,

 103.- Diêm-sơn gạo gấm thường xuyên,

 104.- Chạy khỏi khúc vịnh gần miền là vui,

 105.- Ba vua hồi trước tích lương,

 106.- Để cho tàu chở cụp lường các nơi,

 107.- Chợ Xanh neo lại mà chơi.

 108.- Đi chợ Trầu-thất nghỉ ngơi rượu trà,

 109.- Chạy lên đến khúc ngã ba,

 110.- Ai về Phú-liệu ai qua Ninh-bình,

 111.- Ninh-bình hạt gạo quá xinh,

 112.- Các lái đẹp tình ghé lại bán buôn,

 113.- Đông-cô nhà cửa tưng bừng,

 114.- Có ông quan phú luôn từng dạy dân,

 115.- Hải-lạng ta đã kề lần,

 116.- Có nhà lò gạch ở gần đâu đây,

 117.- Tỉnh Nam địa cuộc khéo xây,

 118.- Bến đò nằm đó bến đây ghe đình,

 119.- Chợ Trầu chợ Gạo thêm xinh,

 120.- Chợ Che nằm đó đẹp tình ý ai,

 121.- Nhà ngang phố dọc dãy dài,

 122.- Trong thời có tỉnh ngoài thời tàu neo,

 123.- Kể xe người ngựa như bèo,

 124.- Có nhà mỹ-tửu lại đào phố sang,

 125.- Có thầy Bạch-thái giàu sang,

 126.- Nhiều bạc nhiều vàng nhà cửa dễ coi,

 127.- Tàu thời thầy sắm cũng nhiều,

 128.- Cầm đồ tiền góp bao nhiêu cũng màn,

 129.- Rủ nhau đi chợ Quy-hoàn,

 130.- Đi cho tới chợ lại thèm bành dây,

 131.- Tuy là chốn ấy vui vầy,

 132.- Thưa lại cùng thầy Hà-nội vui hơn,

 133.- Ba xu tàu nước còn chày,

 134.- Rủ tớ rủ thầy bảy giác lên xe,

 135.- Mười giờ xe lửa tới nơi,

 136.- Tới tỉnh Hà-nội thăm chơi giá hàng,

 137.- Tỉnh thời có sứ có tòa.

 138.- Đồng đen Ông Thánh ở mà đâu đây,

 139.- Cửa ô Mười tám khéo xây,

 140.- Đồng-xuân tự thị đông đầy người ta,

 141.- Đường thời đèn khí sáng lòa,

 142.- Bàn cờ phố ở ai mà không mê,

 143.- Phố thời trăm vật ê hề,

 144.- Anh hùng đệ mục vui mê sự tình,

 145.- Ngó qua thấy tỉnh Bắc-ninh,

 146.- Có cầu trăm nhịp khác tình lại qua,

 147.- Cảnh giàu người khéo như hoa,

 148.- Lời ăn tiếng nói ai mà không mê,

 149.- Ngồi buồn chép mấy lời quê,

 150.- Ai ai tham đọc chớ chê chớ cười,

Hết

Tượng Chấn Vũ bằng đồng đen đền Quán Thánh Hà Nội

 



[1] Ghe chạy vát, louvoyer, faire des bordées.

[2] Cửa TƯ-HIỀN.

[3] Dị bản : hòn Om

[4] Dị bản : chú Mới.

[5] Là đèo Hải Vân giữa Huế và Đà Nẵng.

[6] Hai nơi nầy ở dưới chơn núi đèo Hải Vân

[7] Cửa Hàn(g) là cửa Đà Nẵng.

[8] Bãi biển Hà Thân ngó ra thấy một cái hòn lúp nhúp như con NGHÊ.

[9] Tức là Cù lao Chàm ở Quảng Nam

[10] Cửa Đợi tức là cửa Đại ở Hội An.

[11] Rạn tức là những hòn đá ngầm (écueil) hoặc nổi cần phải tránh.

[12] Dị bản : Hòn Thang

[13] Dị bản : cửa Xể.

[14] Mũi Tổng Binh

[15] Cây lâm châm và cây cỏ ngựa. Dị bản : Tổng Binh có vũng ăn quanh

[16] Vũng Tàu ở Sa-Kỳ.

[17] Nhàn là chim én biển. Tại hòn nầy có nhiều én nên có câu hát thổ dao như sau :

 Chim nhàn bắt cá lượng khơi,

 Thấy anh chân chẩu nhiều nơi em buồn.

[18] Dị bản : Khỏi Thập là tới Bàn thang

[19] Đây là vô tới Quảng Ngãi, cù lao Ré nằm trước Sa-Kỳ.

[20] Tại đây có hòn Nghiên, hòn Bút đều ở Quảng Ngãi.

[21] Hòn Sụp nằm dưới cửa Quảng Ngãi.

[22] Cửa con ở quận Mộ Đức.

[23] Bãi Trường là bãi dài.

[24] Tức là mũi Sa-Huỳnh ở Quảng Ngãi.

[25] Hoặc : Từ Phú là chỗ sản xuất đồ gốm bằng đất.

[26] Hòn Khô Cao ở Bình Định.

[27] Mũi Dy Rồng.

[28] Tức là núi Vọng Phu ở Phù Cát tỉnh Bình Định.

[29] Tức là hòn Cõ, hòn Cân ở Bình Định.

[30] Đến đây ngọn gió Nam nó lòn qua cái eo Dượt tiếng gió kêu rần rần.

[31] Hoặc Sơn hô.

[32] Làng Mai ở Bình Định.

[33] Hòn Khô ở ngoài mũi Trà Nông.

[34] Đến đây là vô gần tới Cù-Mông.

[35] Hoặc Cảnh Dương.

[36] Vũng La ở Phú Yên.

[37] Hoặc sông Cầu.

[38] Xối tức là máng xối (gouttière).

[39] Dị bản : Hòn Chùa, Ba Trại nằm xiên ra ngoài.

[40] Đây là trên cửa Tuy Hòa, nơi đây có nhiều rạn. Dị bản : vào lao.

[41] Dị bản : Xem lên mái Lách vậy là Mái Liên.

[42] Cửa Dinh ở Tuy Hòa.

[43] Hòn Khô ở ngoài mũi Trà Nông.

[44] Đầm Ô-RÔ ở cuối đèo Cả, đầm này được yên sóng, gió nồm, gió Bắc không lai chuyển.

[45] Hoặc hòn Nưa.

[46] Tức là bãi biển Đại Lãnh, là một thắng cảnh có tiếng.

[47] Hết bãi các Thắm thì đến Kinh ĐỒI-MỒI.

[48] Dị bản : Anh em chịu khó một hồi.

[49] Hòn núi Xa-cừ có nhiều màu sắc như ốc Xa-Cừ (nacre).

[50] Cửa Bé ở ngoài mũi Bãi giếng tức là Vạn giả (Khánh Hòa) có hòn giống như trâu lội dưới nước.

[51] Dị bản : Xuống khỏi Trâu Nằm tới mũi Kỳ Thung.

[52] Hòn Chà Là.

[53] Đây là tới đèo Ruột Tượng, đèo Rù Rì phía ngoài Nha Trang.

[54] Đệm buôm, cây song bắt chằng (chầm).

[55] Tức là hòn Nội và hòn Ngoại ở Nha Trang.

[56] Ở mũi Bà Hin cửa Bé Nha Trang.

[57] Tại đây có nhiều cây mun, dùng làm đũa ăn cơm.

[58] Cam Linh tức là Cam Ranh ở Bình Ba.

[59] Cửa Mô-O.

[60] Dị bản : Vũng Lăng.

[61] Nghĩa là đá xây kín như cái buồng.

[62] Dị bản : Hòn Rơm.

[63] Mũi Mai Giằng ở phía ngoài Phan Rang.

[64] Tại Mũi Dinh nước chảy mạnh có tiếng.

[65] Vại cũng như chum, lu. Đây không rõ nghĩa, có lẽ là địa điểm.

[66] Có người gọi là bãi Tiên.

[67] Dị bản : Bãi Chông đã đến bãi Trần nào hay.

[68] Tức là cù lao Cao. Dị bản : Khu Ông, Cà Ná là đây.

[69] Hoặc dị bản : cù lao Cao đó thẳng ngay La Gàn.

[70] Dị bản : Nam vào chốn đây đã an, Hòng Song, Trại Lưới xinh xang làm nghề.

[71] Cửa Dường ở phía ngoài của Phan Rí.

[72] Dị bản : Hòn Lang đàng trước bốn bề sóng xao (hòn Lang ở Phan Rí).

[73] Gành Thông ở dưới Sẫm tại Hòn Một, Phan Thiết.

[74] La Gì nay là tỉnh Bình Tuy.

[75] Hòn Bà nằm trước cửa La Gì, tại đó có rạn cây Gõ.

[76] Mũi Bà nằm dưới La Gì.

[77] Hóc tức là bờ biển có đá dựng thẳng xuống nước (falaise rocheuse).

[78] Tức là lễ cúng Phật tại chùa sở tại.

[79] Thủy Vân tức là mũi Kỳ Vân ở Phước Hải.

[80] Hòn Tai nằm dưới mũi Kỳ Vân.

Free Web Hosting